Một cải cách trong năm 2005 là thành lập Ban Đầu Tư và Trung tâm Khu vực (IRCU). Ban chuyên môn này của USCIS thực hiện công việc giám sát chương trình EB-5 bao gồm thẩm tra trường hợp cụ thể, thiết kế đơn, thiết lập quy định và chính sách. Việc thành lập Ban IRCU đã dẫn đến sự phối hợp tốt hơn và tăng độ đáng tin cậy trong chương trình.
USCIS quản lý các Chương trình đầu tư nhập cư, còn được gọi là “EB-5”, được tạo ra bởi Quốc hội vào năm 1990 để kích thích nền kinh tế Mỹ thông qua tạo việc làm và đầu tư vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội mà chương trình đầu tư định cư Mỹ EB-5 visa cũng dần có nhiều thay đổi theo thời gian. Cùng G&B điểm qua những cột mốc lớn của lịch sử hình thành và phát triển chương trình EB-5 qua bài viết sau.
Lịch sử hình thành chương trình đầu tư định cư EB-5 tại Mỹ
Được thành lập vào tháng 11 năm 1990, đó là:
Một chương trình thí điểm, cho phép các cá nhân nước ngoài đầu tư vào các đơn vị kinh tế được gọi là “Trung tâm khu vực”. Bao gồm 2 hình thức:
– Mở rộng thông qua việc đầu tư vào một cơ sở để tăng 40% trong giá trị tài sản hoặc số lao động.
– Kinh doanh mới hoặc mua một doanh nghiệp hiện tại và cơ cấu, tổ chức theo hướng tích cực để tạo ra một doanh nghiệp thương mại mới.
Đến năm 1993, Quốc hội đã tạo ra Chương trình Thí điểm Đầu Tư Di dân được thực hiện vào cùng thời gian để khuyến khích mối quan tâm vào chương trình EB-5 visa. Chương trình thí điểm mới này đã hình thành Các Trung tâm Khu vực EB-5. Các Trung tâm Khu vực là các doanh nghiệp được Sở Nhập Tịch và Di trú Mỹ (USCIS) chỉ định quản lý các khoản đầu tư EB5 và tạo ra công ăn việc làm.
Tiếp đó, là một vài cải cách quan trọng đã được thực hiện đối với chương trình EB-5 vào cuối thập kỷ 90. Những thay đổi này được đưa ra do phát hiện được sự lỏng lẻo trong quá trình thực thi điều lệ và sự gian lận trong các dự án đầu tư EB-5. Quyết định của Toàn án Khu vực của Mỹ về vụ U.S. v. O’Connor đã phát hiện ra các kế hoạch đầu tư EB-5 gian lận. Ban kháng cáo của USCIS, Văn phòng kháng cáo hành chính (AAO), đã ban hành những cải cách đối với các thủ tục EB-5 vào năm 1998. Những thay đổi này yêu cầu các nhà đầu tư chứng minh rằng vốn đầu tư EB-5 có từ nguồn hợp pháp, rằng họ đích thân liên quan đến dự án EB-5 và nghiêm cấm bảo lãnh doanh thu đầu tư.
Đến tháng 08 năm 2003, Quốc hội đã thông qua Đạo Luật Gia Hạn và mở rộng Chương trình Thí điểm Cơ bản năm 2003 để giúp đem lại sức sống cho chương trình EB-5. Đạo luật này yêu cầu Văn phòng Kế toán Chính phủ (GAO) tiến hành điều tra kỹ lưỡng chương trình EB-5 visa. Cuộc điều tra này cho thấy chỉ một phần nhỏ trong số 10.000 visa được phân bố cho chương trình EB-5 là thực sự được cấp hàng năm. Sự phát hiện này đã thúc giục nhiều cải cách hơn cho chương trình.
Một cải cách trong năm 2005 là thành lập Ban Đầu Tư và Trung tâm Khu vực (IRCU). Ban chuyên môn này của USCIS thực hiện công việc giám sát chương trình EB-5 bao gồm thẩm tra trường hợp cụ thể, thiết kế đơn, thiết lập quy định và chính sách. Việc thành lập Ban IRCU đã dẫn đến sự phối hợp tốt hơn và tăng độ đáng tin cậy trong chương trình.
Cũng từ đây thành công của chương trình EB-5 bắt đầu và thu hút hơn 2,1 tỷ USD vào nền kinh tế Hoa Kỳ giữa năm 2005 và 2010 từ hơn 4.000 nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại có hơn 150 Trung Tâm Khu Vực đã được phê duyệt hoạt động tại 35 quốc gia, tập trung chủ yếu vào các dự án phát triển bất động sản. Nguồn đầu tư Châu Á có lịch sử chiếm hơn 50% nhà đầu tư EB-5.
Cuối cùng, USCIS đã ban hành hướng dẫn chính sách sửa đổi EB-5 trong năm 2009. USCIS tập trung xử lý chương trình EB-5 tại Trung tâm Dịch vụ California (CSC) mà trước đó nó được thực hiện tại hai trung tâm khác nhau – California và Texas. Mặc dù vẫn chưa cố định, nhưng chương trình EB-5 đã được cho phép trở lại. Trong năm 2009, Tổng thống Obama đã kí quyết định gia hạn chương trình thí điểm đầu tư di dân EB-5 đến 30/9/2012. Cho đến nay, chương trình đã được sự hỗ trợ rất nhiều từ chính phủ Hoa Kỳ với nhiều dự án được mở ra khuyến khích nhà đầu tư.
About The Author: Immigration Master
More posts by Immigration Master